Được thông qua bởi Đại hội đồng WMA (Hiệp hội Y khoa Thế giới) lần thứ 63 tại thủ đô Bangkok, Thái Lan, tháng 10/2012và được sửa đổi bởi Đại hội đồng WMA (Hiệp hội Y khoa Thế giới) lần thứ 68, tại thành phố Chicago, Hoa Kỳ, tháng 10/2017

LỜI NÓI ĐẦU

1. Những tiến bộ trong khoa học y khoa, đặc biệt là các kỹ thuật phẫu thuật, định type mô và thuốc ức chế miễn dịch, đã giúp tăng đáng kể tỷ lệ cấy ghép thành công các bộ phận và mô của con người. Tuy nhiên, ở tất cả các quốc gia, tình trạng thiếu người hiến tạng có khả năng dẫn đến những ca tử vong có thể tránh được. Các hiệp hội y khoa quốc gia nên hỗ trợ các nỗ lực nhằm tối đa hóa số lượng nội tạng hiến tạng có sẵn ở quốc gia của họ và bảo đảm duy trì các tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Hiệp hội Y khoa Thế giới đã phát triển chính sách này để hỗ trợ các hiệp hội y tế, bác sĩ, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác và các nhà hoạch định chính sách nhằm đạt được mục tiêu này.

Chính sách này dựa trên một số nguyên tắc đạo đức cốt lõi: lòng vị tha, quyền tự chủ, lòng nhân ái, sự công bằng và công lý. Những nguyên tắc này sẽ hướng dẫn các chính sách ở các quốc gia đang phát triển và những người thực hiện chính sách đó, cả về việc thu nội tạng cũng như việc phân phối và cấy ghép nội tạng của người hiến tạng. Tất cả các hệ thống và quy trình phải minh bạch và cởi mở để có thể giám sát kỹ lưỡng.

Tuyên bố này áp dụng cho việc hiến tạng nội tạng và mô từ cả người hiến tạng đã qua đời và người hiến tạng còn sống. Tuyên bố không áp dụng cho việc hiến máu.

NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG

2. Điều quan trọng là các cá nhân phải nhận thức được quyền lựa chọn hiến tạng và có cơ hội được lựa chọn có hiến tạng và/hoặc hiến mô trước và sau khi họ tử vong hay không. Việc nhận thức và lựa chọn cần được tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tiếp cận phối hợp về nhiều phương diện bởi nhiều bên liên quan và các phương tiện khác nhau, bao gồm nhận thức truyền thông và các chiến dịch cộng đồng. Khi thiết kế các chiến dịch như vậy cần phải tính đến mọi sự nhạy cảm về tôn giáo hoặc văn hóa của đối tượng khán độc giả mục tiêu.

3. Thông qua các chiến dịch nâng cao nhận thức, các cá nhân cần được thông báo về lợi ích của việc cấy ghép, tác động đến cuộc sống của những người đang chờ ghép tạng và tình trạng thiếu người hiến tạng. Họ nên được khuyến khích suy nghĩ về mong muốn của chính mình về việc hiến tạng, thảo luận về mong muốn của họ với gia đình và bằng hữu, cũng như sử dụng các cơ chế đã được thiết lập để chính thức ghi lại những mong muốn đó bằng cách chọn tham gia hoặc không tham gia hiến tạng.

4. WMA ủng hộ việc lựa chọn hiến tạng đã được thông tin đầy đủ. Các hiệp hội y tế quốc gia ở các quốc gia đã áp dụng hoặc đang xem xét chính sách “giả định đồng ý” (hoặc từ chối), trong đó có giả định rằng cá nhân muốn hiến tạng trừ phi có bằng chứng ngược lại hoặc “lựa chọn bắt buộc,” trong đó tất cả mọi người sẽ được yêu cầu tuyên bố liệu họ có muốn hiến tạng hay không, thì nên cố gắng hết sức để bảo đảm rằng các chính sách này đã được công bố đầy đủ và không làm giảm sự lựa chọn hiến tạng đã được thông tin đầy đủ, kể cả quyền không hiến tạng của bệnh nhân.

5. Cần cân nhắc việc thành lập cơ quan ghi danh hiến tạng quốc gia để thu thập và duy trì danh sách những công dân đã chọn hiến hoặc không hiến bộ phận cơ thể và/hoặc mô của họ. Bất kỳ cơ quan ghi danh nào như vậy đều phải bảo vệ quyền riêng tư cá nhân và khả năng kiểm soát việc thu thập, sử dụng, tiết lộ và truy cập thông tin sức khỏe của họ cho các mục đích khác. Phải có các quy định để bảo đảm rằng quyết định ghi danh hiến được thông tin đầy đủ và người ghi danh có thể rút khỏi việc ghi danh một cách dễ dàng, nhanh chóng và không bị ảnh hưởng.

6. Hiến tạng [từ người cho còn] sống ngày càng trở thành một phần quan trọng trong các chương trình ghép tạng ở nhiều quốc gia. Hầu hết người hiến còn sống là giữa các cá nhân có quan hệ họ hàng hoặc gần gũi về mặt tình cảm và chiếm số lượng ít, nhưng ngày càng có nhiều người hiến tạng cho người lạ. Vì có những rủi ro về sức khỏe liên quan đến người hiến tạng còn sống, nên việc kiểm soát và bảo vệ thích hợp là rất cần thiết. Thông tin nhằm thông báo cho mọi người về khả năng hiến tạng với tư cách là người hiến tạng còn sống cần được thực hiện cẩn thận để không gây áp lực buộc họ phải hiến tạng và giảm thiểu tình trạng bị ép buộc vì lý do về tài chính hoặc lý do khác. Những người hiến tạng tiềm năng nên biết nơi để có được thông tin chi tiết về những gì liên quan, cần được thông báo về những rủi ro hiện hữu và nên biết rằng có những biện pháp bảo vệ để bảo vệ những người hiến tạng.

QUY TRÌNH HIẾN TẠNG VÀ MÔ TỪ NGƯỜI HIẾN TẠNG ĐÃ QUA ĐỜI

7. WMA khuyến khích các thành viên của mình trợ giúp phát triển các quy trình quy mô quốc gia mang tính phối hợp, toàn diện về việc thu nội tạng và mô của người chết (còn gọi là tử thi) với sự tham vấn và hợp tác với tất cả các bên liên quan. Các vấn đề đạo đức, văn hóa và xã hội phát sinh liên quan đến hiến tạng và cấy ghép cần được giải quyết, bất cứ khi nào có thể, trong một quy trình mở bao gồm tranh luận công khai dựa trên bằng chứng xác thực.

8. Các quy trình ở quy mô quốc gia và địa phương nên cung cấp thông tin chi tiết về việc xác định, giới thiệu và quản lý những người hiến tạng tiềm năng cũng như liên lạc với những người thân của người đã tử vong. Họ nên khuyến khích việc lấy các cơ quan và mô phù hợp với tuyên bố này. Các quy trình nên duy trì các nguyên tắc chính sau:

  • Các quyết định từ chối hoặc rút lại phương pháp điều trị kéo dài sự sống phải dựa trên sự đánh giá liệu việc điều trị có mang lại lợi ích cho bệnh nhân hay không. Những quyết định như vậy phải, và phải được xem là hoàn toàn độc lập với bất kỳ quyết định nào về hiến tạng.
  • Việc chẩn đoán tử vong phải được thực hiện theo các hướng dẫn quốc gia và như được nêu trong Tuyên bố Sydney của WMA về Xác định Tử vong và Phục hồi Nội tạng.
  • Cần có sự tách biệt rõ ràng giữa nhóm điều trị và nhóm cấy ghép. Đặc biệt, bác sĩ tuyên bố hoặc chứng nhận cái chết của người hiến tạng tiềm năng sẽ không được tham gia vào quá trình ghép tạng. Anh ấy/cô ấy cũng không có trách nhiệm chăm sóc người nhận nội tạng.
  • Các quốc gia thực hiện việc hiến tạng sau khi tử vong do bệnh tuần hoàn/do tim nên có các quy trình cụ thể và chi tiết cho hoạt động này.
  • Khi một cá nhân bày tỏ mong muốn rõ ràng và tự nguyện về việc hiến tạng nội tạng và/hoặc mô sau khi chết, cần thực hiện các bước để tạo điều kiện thuận lợi cho mong muốn đó bất cứ khi nào có thể. Đây là một phần trách nhiệm của nhóm điều trị đối với bệnh nhân sắp tử vong.
  • WMA xem mong muốn của người hiến tạng tiềm năng là điều quan trọng nhất. Người thân và những người gần gũi với bệnh nhân nên được khuyến khích mạnh mẽ ủng hộ mong muốn hiến tạng nội tạng và/hoặc mô của người đã qua đời. Bất cứ khi nào có thể, những cuộc trò chuyện này nên diễn ra trước khi bệnh nhân qua đời.
  • Những người chịu trách nhiệm tiếp cận bệnh nhân, thành viên gia đình hoặc người ra quyết định được chỉ định về việc hiến tạng nội tạng và mô phải có sự kết hợp phù hợp giữa kiến thức, kỹ năng và sự nhạy cảm để tham gia vào các cuộc thảo luận như vậy. Sinh viên y khoa và bác sĩ thực hành nên tìm kiếm sự đào tạo cần thiết cho nhiệm vụ này, và các cơ quan có thẩm quyền cần cung cấp các nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc đào tạo đó.
  • Việc hiến tạng phải là vô điều kiện. Trong những trường hợp đặc biệt, yêu cầu của những người hiến tạng tiềm năng, hoặc những người ra quyết định thay thế họ, về việc trao nội tạng hoặc mô cho một người nhận cụ thể có thể được xem xét nếu luật pháp quốc gia cho phép. Tuy nhiên, những người hiến tạng muốn áp dụng các điều kiện mà có thể bị xem là phân biệt đối xử đối với một số nhóm nhất định nên bị khước từ.

9. Các bệnh viện và các tổ chức khác, nơi diễn ra việc hiến tạng, phải bảo đảm rằng các quy trình hiến tạng được công bố rộng rãi cho những người có khả năng sử dụng chúng và có đủ nguồn lực để thực thi. Họ cũng nên khuyến khích văn hóa ủng hộ hiến tạng trong tổ chức, trong đó việc xem xét hiến tạng là tiêu chuẩn, hơn là ngoại lệ, khi một người bệnh qua đời.

10. Vai trò của việc phối hợp ghép tạng là rất quan trọng đối với việc hiến tạng. Những người thực hiện điều phối đóng vai trò là đầu mối liên lạc chính giữa gia đình tang quyến và nhóm hiến tạng, đồng thời cũng thường đảm nhận các công việc sắp xếp hậu cần phức tạp để việc hiến tạng diễn ra. Vai trò của họ phải được công nhận và trợ giúp.

11. Việc hiến tạng của người đã qua đời phải dựa trên lưu ý rằng hiến tạng là một món quà, miễn phí và tự nguyện cho đi. Điều này phải bao gồm sự đồng ý tự nguyện và không bị áp lực của cá nhân trước khi chết (bằng cách chọn tham gia hoặc từ chối hiến tạng tùy theo khu vực pháp lý) hoặc sự cho phép tự nguyện của những người gần gũi với bệnh nhân đã qua đời nếu không biết mong muốn của người đó. WMA phản đối mạnh mẽ việc thương mại hóa việc hiến tạng và cấy ghép.

12. Những người hiến tiềm năng hoặc những người ra quyết định chăm sóc sức khỏe thay thế họ phải được tiếp cận thông tin chính xác và phù hợp, kể cả thông qua các bác sĩ đa khoa của họ. Thông thường, điều này sẽ bao gồm thông tin về:

  • Các quy trình và định nghĩa liên quan đến việc xác nhận tử vong,
  • Xét nghiệm được thực hiện để xác định sự phù hợp của các cơ quan và/hoặc mô để cấy ghép và điều này có thể tiết lộ những rủi ro sức khỏe không được nghi ngờ trước đây ở những người hiến tạng sắp tới và gia đình họ,
  • Các phương pháp có thể cần thiết để bảo tồn chức năng nội tạng cho đến khi xác nhận tử vong và tiến hành cấy ghép,
  • Điều gì sẽ xảy ra với cơ thể sau khi tuyên bố tử vong,
  • Những nội tạng và mô nào có thể được hiến tạng,
  • Quy trình sẽ được tuân theo trong trường hợp gia đình phản đối việc quyên góp, và
  • Khả năng và quá trình rút lại chấp thuận.

13. Những người hiến tạng tiềm năng hoặc người ra quyết định chăm sóc sức khỏe thay thế họ phải có cơ hội đặt câu hỏi về việc hiến tạng và các câu hỏi của họ phải được trả lời một cách tế nhị và dễ hiểu.

14. Trong trường hợp hiến cả nội tạng và mô, phải cung cấp thông tin và phải có sự đồng ý đối với cả hai bộ phận này, để giảm thiểu sự đau khổ và phiền toái cho những người thân thiết với người đã khuất.

15. Ở một số nơi trên thế giới, gia đình những người hiến tạng sẽ nhận được chi phí tang lễ. Điều này có thể được coi là sự thừa nhận phù hợp đối với hành động vị tha của họ hoặc là một khoản thanh toán để dung hòa tính tự nguyện của việc lựa chọn và cơ sở vị tha của việc hiến tạng. Việc giải thích có thể phụ thuộc một phần vào cách điều này được thiết lập và quản lý. Khi xem xét việc áp dụng một hệ thống như vậy, cần phải cẩn thận để bảo đảm rằng các nguyên tắc cốt lõi về lòng vị tha, quyền tự chủ, lòng nhân ái, sự công bằng và công lý được đáp ứng.

16. Việc ra quyết định một cách tự do và sáng suốt không chỉ cần được cung cấp thông tin, mà còn cần không có sự ép buộc. Mọi lo ngại về áp lực, ép buộc phải được giải quyết trước khi quyết định hiến tạng hoặc mô.

17. Các tù nhân và những người khác bị giam giữ trong các trại giam phải cần có đủ điều kiện để hiến tạng sau tử vong, khi các bước kiểm tra được thực hiện để bảo đảm rằng việc hiến tạng phù hợp với mong muốn trước đó của cá nhân đó, không bị ép buộc và, khi cá nhân đó không có khả năng đưa ra sự chấp thuận, thì cần ủy quyền cho một thành viên gia đình hoặc người có thẩm quyền quyết định khác. Việc ủy quyền như vậy không được vượt quá sự bảo lưu hoặc từ chối chấp thuận trước đó.

18. Sự tử vong của họ là do nguyên nhân tự nhiên và điều này có thể kiểm chứng được.

19. Tại những quốc gia thi hành án tử hình, tù nhân bị hành quyết không được xem là người hiến tạng và/hoặc mô. Mặc dù có thể có những trường hợp riêng lẻ mà tù nhân hành động tự nguyện và không bị áp lực, nhưng không thể đưa ra các biện pháp bảo vệ thích hợp để chống lại sự ép buộc trong mọi trường hợp.

PHÂN PHỐI NỘI TẠNG TỪ NGƯỜI HIẾN TẠNG ĐÃ TỬ VONG

20. WMA cho rằng cần có các chính sách rõ ràng, công chúng có thể giám sát, quản lý tất cả các khía cạnh của việc hiến tạng và cấy ghép nội tạng và mô, kể cả việc quản lý danh sách chờ nội tạng để đảm bảo quyền tiếp cận công bằng và phù hợp.

21. Chính sách quản lý danh sách chờ cần bảo đảm tính hiệu quả và công bằng. Các tiêu chí cần được xem xét khi phân bổ cơ quan hoặc mô bao gồm:

  • Mức độ nghiêm trọng và cấp bách của nhu cầu y tế,
  • Thời gian chờ trong danh sách,
  • Xác suất thành công về mặt y tế được đo lường bằng các yếu tố như tuổi tác, loại bệnh, khả năng cải thiện chất lượng cuộc sống, các biến chứng khác và khả năng tương thích mô học.

22. Không được phân biệt đối xử về địa vị xã hội, lối sống hoặc hành vi. Các tiêu chí phi y tế phải không được xét đến.

QUY TRÌNH HIẾN TẠNG VÀ MÔ TỪ NGƯỜI HIẾN TẠNG CÒN SỐNG

23. Hiến tạng từ người sống ngày càng trở nên phổ biến như một cách để khắc phục tình trạng thiếu nội tạng từ những người hiến tạng đã qua đời. Trong hầu hết các trường hợp, người hiến tạng sẽ cung cấp nội tạng cho người thân hoặc những người gần gũi về mặt tình cảm. Một số ít cá nhân chọn hiến nội tạng một cách vị tha cho một người lạ. Một tình huống khác là khi một hoặc nhiều cặp người cho và người nhận không tương thích với nhau nhưng quyên góp theo hình thức trao đổi chéo hoặc hệ thống quyên góp gộp (ví dụ: người hiến A tặng cho người nhận B, người hiến B tặng cho người nhận C và người hiến C tặng cho người nhận A).

24. Tất cả những người hiến tạng tiềm năng phải được cung cấp thông tin chính xác và cập nhật về quy trình cũng như những rủi ro của việc hiến tạng và có cơ hội thảo luận riêng về vấn đề này với một thành viên của nhóm chăm sóc sức khỏe hoặc nhân viên tư vấn. Thông thường những thông tin này sẽ bao gồm:

  • Những rủi ro khi trở thành người hiến tạng sống,
  • Các xét nghiệm được thực hiện để đánh giá sự phù hợp của việc hiến tạng và điều này có thể tiết lộ các vấn đề sức khỏe không được nghi ngờ trước đây,
  • Điều gì sẽ xảy ra trước, trong và sau khi hiến tạng diễn ra, và
  • Hệ lụy lâu dài của việc sống mà không có nội tạng hiến tạng trong trường hợp hiến nội tạng đặc.

25. Người hiến tạng tiềm năng cần có cơ hội đặt câu hỏi về việc hiến tạng và các câu hỏi của họ cần được trả lời một cách tế nhị và dễ hiểu.

26. Cần có sẵn các quy trình để bảo đảm rằng những người hiến tạng còn sống đang hành động một cách tự nguyện và không bị áp lực hoặc ép buộc. Để tránh việc người hiến tạng được trả tiền và sau đó đóng giả là người hiến, cần tiến hành kiểm tra độc lập để xác thực mối quan hệ đã được tuyên bố và nếu không thể chứng minh được điều này thì việc hiến tạng không nên được tiến hành. Việc kiểm tra như vậy phải độc lập với nhóm cấy ghép và những người đang chăm sóc người nhận tiềm năng.

27. Cần áp dụng các biện pháp bảo vệ bổ sung cho người hiến tạng dễ bị tổn thương, bao gồm nhưng không giới hạn, ở những người phụ thuộc theo một cách nào đó (chẳng hạn như trẻ vị thành niên đủ năng lực hiến tạng cho cha mẹ hoặc anh chị em).

28. Tù nhân chỉ được phép hiến tạng khi còn sống trong những trường hợp đặc biệt, cho các thành viên gia đình cấp một hoặc cấp hai; phải cung cấp bằng chứng về bất kỳ mối quan hệ nào đã được xác nhận trước khi tiến hành hiến tạng. Khi tù nhân được xem là người hiến tạng sống, thì cần phải có các biện pháp bảo vệ bổ sung để đảm bảo họ hành động tự nguyện và không bị ép buộc.

29. Những người thiếu năng lực đồng ý không được xem là người hiến tạng sống vì họ không có khả năng hiểu và quyết định một cách tự nguyện. Các trường hợp ngoại lệ có thể được thực hiện trong những trường hợp rất hạn chế, sau khi xem xét về mặt pháp lý và đạo đức.

30. Người hiến tạng không bị thiệt hại về mặt tài chính do hiển tạng và do đó phải được hoàn trả các chi phí chung và chi phí y tế cũng như bất kỳ tổn thất thu nhập nào phát sinh.

31. Ở một số nơi trên thế giới, người ta được trả tiền khi hiến một quả thận, mặc dù ở hầu hết các nước việc bán nội tạng là bất hợp pháp. WMA phản đối mạnh mẽ một thị trường về nội tạng.

QUY TRÌNH DÀNH CHO NGƯỜI NHẬN

32. Cần tuân thủ các quy trình để đưa ra quyết định một cách tự do và sáng suốt trong trường hợp người nhận nội tạng hoặc mô. Thông thường, điều này sẽ bao gồm việc cung cấp thông tin về:

  • Rủi ro của phương pháp phẫu thuật
  • Khả năng sống sót, tỷ lệ mắc bệnh và chất lượng cuộc sống trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn,
  • Các lựa chọn thay thế cho việc cấy ghép, và
  • Cách thu thập mô và cơ quan.

33. Trong trường hợp người hiến tạng được chẩn đoán muộn về nhiễm trùng, bệnh tật hoặc khối u ác tính, cần có giả định chắc chắn rằng người nhận sẽ được thông báo về bất kỳ rủi ro nào mà họ có thể đã gặp phải. Các quyết định cá nhân việc tiết lộ cần phải tính đến các trường hợp cụ thể, bao gồm mức độ và tính nghiêm trọng của rủi ro. Trong hầu hết các trường hợp, việc tiết lộ là phù hợp và cần được quản lý cẩn thận và nhạy cảm.

CHI PHÍ GHÉP TẠNG VÀ NGUỒN GỐC CỦA CƠ QUAN, MÔ

34. Các cơ quan hoặc mô bị nghi ngờ được lấy bằng các phương tiện bất hợp pháp sẽ không được chấp nhận cấy ghép.

35. Không được bán nội tạng và mô để kiếm lời. Khi tính toán chi phí cấy ghép, các chi phí liên quan đến bản thân cơ quan hoặc mô đó phải được giới hạn ở những chi phí liên quan trực tiếp đến việc thu hồi, lưu trữ, phân bổ và cấy ghép.

36. Các bác sĩ phẫu thuật cấy ghép nên tìm cách bảo đảm rằng các cơ quan và mô mà họ cấy ghép được lấy theo đúng các quy định của chính sách này và không nên cấy ghép các cơ quan và mô mà họ biết, hoặc nghi ngờ, là được lấy một một cách không hợp pháp và phi đạo đức.

MINH BẠCH VÀ CÓ TRÁCH NHIỆM

37. Hiệp hội Y khoa Quốc gia nên làm việc với chính phủ và các tổ chức liên quan để bảo đảm có sẵn các cấu trúc và quy trình phù hợp, hiệu quả nhằm:

  • Trợ giúp việc truy xuất nguồn gốc liên quan và theo dõi tất cả những người nhận cấy ghép và người hiến tạng còn sống, bao gồm cả những người cần quản lý y tế liên tục nhận được sự chăm sóc và giúp đỡ;
  • ghi lại thông tin về tỷ lệ và kết quả hiến tạng và cấy ghép;
  • đánh giá kết quả ngắn hạn và dài hạn, chất lượng, an toàn, hiệu quả của hoạt động hiến tạng và ghép tạng;
  • đánh giá việc tuân thủ các quy định về đạo đức và lâm sàng của hoạt động hiến tạng và ghép tạng;

38. Dữ liệu phát sinh từ các hoạt động này phải được truy cập công khai và cởi mở cho việc xem xét kỹ lưỡng (mặc dù có sự bảo vệ thích hợp về tính bảo mật cho người hiến và người nhận).

NHỮNG LỰA CHỌN TƯƠNG LAI

39. Các biện pháp y tế cộng đồng nhằm giảm nhu cầu nội tạng hiến tặng phải được xem là ưu tiên bên cạnh các sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả và thành công của hệ thống hiến tạng.

40. Cần theo dõi những phát triển và khả năng mới, chẳng hạn như cấy ghép dị loài và sử dụng công nghệ tế bào gốc để sửa chữa các cơ quan bị tổn thương. Trước khi đưa vào thực hành lâm sàng, những công nghệ này phải được xem xét về mặt khoa học và kiểm tra an toàn chặt chẽ cũng như xem xét về mặt đạo đức. Cũng như với phương pháp cấy ghép dị loài, nếu có những rủi ro tiềm ẩn vượt ra ngoài phạm vi cá nhân người nhận, thì quá trình này cũng phải có sự tham gia tranh luận của công chúng.